LKG3

Tứ thiền là gì – Bốn cấp độ thiền định bao gồm những gì?

tu-thien

Tứ thiền nghĩa là bốn cấp độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Đây là bốn cấp độ tu thiền mà người hành thiền có thể đạt được. Vậy chi tiết về tứ thiền ra sao mời các bạn tham khảo trong bài viết dưới đây

1. Sơ thiền

Cấp độ sơ thiền giúp người hành thiền từ bỏ được các ham muốn trần gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết, không cần đến những ham muốn bằng vật chất bên ngoài. Con người của người hành thiền ở trong trạng yên bình, an lạc.

Sơ thiền là mức nhập định đầu tiên của tứ thiền, vượt qua cấp độ đầu tiên này là người hành thiền đã đạt được “Chánh niệm tỉnh giác” và loại bỏ được chướng ngại là “Năm triền cái”.

1.1 Khái niệm về “Chánh niệm tỉnh giác”:

“Chánh niệm tỉnh giác” là một phương pháp tu tập cổ truyền trong đạo Phật, nhưng vẫn còn rất thích hợp trong đời sống hiện tại của chúng ta ngày nay. Sự thích hợp này hoàn toàn không liên đến đạo Phật hoặc việc trở thành một Phật tử, mà đó là sự tỉnh thức, biết sống hòa hợp và chan hòa với chính mình và thế giới xung quanh. Chánh niệm có nghĩa là ta biết tự nhìn lại mình, quan niệm sống của mình, và ý thức được tính chất toàn vẹn của mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống .

Sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại
Sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại

“Chánh niệm tỉnh giác” muốn nói về một cuộc sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, với một tâm tư sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm. Đây là một hình thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về các hoạt động của thân thể, vừa khiến cho tâm thức diễn tiến một cách thư thái, hài hòa, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai, nhịp nhàng, chuẩn xác.

1.2 Khái niệm về “Năm chướng ngại”

“Năm chướng ngại” là năm màn ngăn che làm cho con người không thấy được sự vố minh trong tâm mình như tham lam, sân, si, ngã mạn, nghi ngờ. Năm chướng ngại bao gồm tham dụcsân hậnhôn trầm thụy miêntrạo cử hối quá, và hoài nghi. Nó cản trở sự thành công trong hành thiền và cản trở thân tâm được an lạc, bình an.

Một là “Tham”

“Tham” là để chỉ trạng thái mong cầu dục lạc, vui thú qua năm giác quan của hình dáng, âm thanh, mùi hương, vị nếm, và cảm xúc, đồng thời cũng bao gồm lòng mong ước mãnh liệt để tìm khoái lạc trong những hoạt động tình dục cũng như tham cầu của cải vật chất.

Lòng tham là tấm màn ngăn che trí tuệ khiến con người dễ dàng gây ra nhiều nghiệp ác hại mình, hại người, tạo khổ đau ngay trong kiếp này và kiếp sau.

Bên cạnh đó, những tệ nạn, những câu chuyện đau lòng do tham rượu, ma tuý, cờ bạc… gây ra. Cái tham đã tạo ra muôn vẻ của bi kịch cuộc sống.

Hai là “Sân” 

“Sân: là bức màn ngăn che thứ hai trong năm chướng ngại. Sân bao gồm cả hai trạng thái sân và hận, thể hiện là sự tức giận bộc lộ ra ngoài hoặc những thù hằn, uất ức ngấm ngầm trong tâm.

Một phút nóng giận, không tỉnh giác, không biết kiềm chế cũng có thể gây ra những tội ác, tội lỗi tác hại cho mình và cho người về lâu dài chính là chữ “Sân”, đủ để thấy sự nguy hiểm của “sân” không kém gì “tham”, bởi nó dẫn đến những hậu quả tai nạn khôn lường. Tâm bệnh như trầm uất, điên loạn, tai biến tim mạch nhiều khi cũng bởi chữ “sân” mà ra.

Muốn loai bỏ “sân” cách tốt nhất là phải tăng trưởng lòng thương yêu trên chính đối tượng cụ thể đó. Một khi đã biết thương mọi người như thương chính bản thân mình thì sẽ giảm trừ được tức giận từ những người khác

Năm chướng ngại bao gồm tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá, và hoài nghi
Năm chướng ngại bao gồm tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá, và hoài nghi

Ba là Hôn trầm

“Hôn trầm” là chướng ngại thứ 3 chỉ trạng thái nặng nề của cơ thể và mờ tối của tâm thức khiến con người mất đi sự linh hoạt, hoạt bát, con người trở nên đình chệ, chán nán. Bên cạnh đó đây cũng là trạng thái tâm lý mệt mỏi, uể oải, lười biếng, buồn ngủ.

Bốn là “Trạo hối”

“Trạo hối” nghĩa là trạo cử và hối quá. Trạo cử là chỉ trạng thái tâm và thân luôn xao động, chân tay không bao giờ chịu yên, tâm hay suy nghĩ lung tung lay động. Hối quá là chỉ sự hối hận và day dứt mãi không nguôi, không ngừng về những lỗi lầm đã qua, điều này khiến nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hiện tại.

Năm là “Nghi”

“Nghi” là sự nghi ngờ, hoài nghi, một bước màn lớn che mất sự nhìn nhận ra sự thật, tâm luôn đặt nhiều câu hỏi rối ren về khả năng của bản thân.

Như vậy, cấp độ đầu tiên của tứ thiền giúp người thiền tập có được “chánh niệm tỉnh giác” và loại bỏ được năm chướng ngại của thân và tâm. Để đạt được cấp sơ thiền nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào sự siêng năng thiền tập từng người.

2. Nhị thiền

Nhị thiền là cấp độ thứ hai trong tứ thiền. Ở cấp độ này, người hành thiền làm quen với khái niệm “Diệt tầm tứ nhập nhị thiền”.

Vậy “diệt tầm tứ” là gì?, theo nghĩa Hán việt, “Diệt”ở đây không phải là giết mà có nghĩa là loại bỏ, loại trừ, “Tầm” là suy tư, “Tứ” là tác ý hay còn gọi là tâm sinh. “Diệt tầm tứ” nghĩa là loại trừ những tham dục thỏa mãn trí tuệ thì mới nhập nhị thiền. Muốn loại trừ được thì phải dùng “như lý tác ý”.

Nhị thiền - Bậc thiền thứ 2 trong tứ thiền
Nhị thiền – Bậc thiền thứ 2 trong tứ thiền

“Như lý tác ý” còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật. Nó là một trạng thái của tâm thức dấy khởi do duyên sự tiếp xúc giữa các giác quan và các đối tượng tương ứng đưa đến sự hiện hành của dòng tư duy hay chuỗi tư tưởng.

Theo quan niệm của đạo Phật thì do sự xúc chạm giữa các giác quan và các đối tượng tương ứng mà ý thức bắt đầu sinh khởi và hoạt động gọi là tác ý hay còn gọi là tâm sinh. Thông thường, tác ý hay tâm sinh hiện khởi theo hai khuynh hướng, hoặc thiện hoặc bất thiện, tùy thuộc vào thói quen, nhân của mỗi người. Nếu một người còn nặng về tham, sân, si thì ý thức sinh khởi theo chiều hướng đưa không tốt tức là tác ý (tâm sinh) bất thiện pháp. Kinh Phật gọi đó là phi như lý tác ý hay tâm đặt sai hướng.

Trái lại, một người không nặng về tham, sân, si thì ý thức sinh khởi theo hướng đưa đến chính kiến hoặc tác ý (tâm sinh) hướng thiện. Đây được gọi là “như lý tác ý” nghĩa là tâm đặt đúng hướng. Do đó, cấp độ nhị thiền là sự thiền tập “ Diệt tầm tứ nhập nhị thiền” theo những kiến giải nêu trên.

3. Tam thiền

Cấp độ thứ ba trong tứ thiền theo Đức Phật nói là sự “Xả niệm lạc trú”.

Ý nghĩa của xả niệm là người hành thiền đã vào được “vô thức”, kiểm soát được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định, những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ… đều bị kiềm chế. Lúc này khi ngồi thiền nhập định, người hành hiền không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình. Niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy.

4. Tứ thiền

Đây là mức thiền cuối cùng và cao nhất trong bốn cấp độ để đạt được trạng thái “xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh”

Muốn “xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh” thì phải trú tâm vào một đối tượng duy nhất vào hơi thở dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ thân hành thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả như ý muốn.

Tứ thiền - Mức thiền cao nhất trong Tứ thiền
Tứ thiền – Mức thiền cao nhất trong Tứ thiền

Lạc, khổ và thanh tịnh là ba trạng thái của thọ, tức là cảm thọ:

  1. Thọ lạc.
  2. Thọ khổ.
  3. Thọ bất lạc bất khổ tức là niệm thanh tịnh.

Trong phần cảm thọ có hai:

  1. Cảm thọ thuộc về thân.
  2. Cảm thọ thuộc về tâm.

Lạc và khổ thuộc cảm thọ về thân, còn hỷ và niệm thanh tịnh thuộc cảm thọ về tâm. Như vậy ly hỷ, xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh là xả cảm thọ về thân và tâm; xả cảm thọ về thân và tâm là tịnh chỉ các hành trong thân và tâm. Cho nên người nhập Tứ Thiền toàn thân tâm bất động, thân tâm không còn rung động một chút xíu nào thì hơi thở phải tịnh chỉ.

Trên đây là một số kiến giải đơn giản về Tứ thiền theo Phật Pháp, những kiến giải này dù chưa thể đầy đủ, nhưng cũng giúp bạn hiểu phần nào về khái niệm “Tứ thiền”.

Theo quan điểm của Trung tâm Dưỡng sinh Thiền Việt, với xu thế phát triển hiện đại ngày nay, những áp lực, căng thẳng trong cuộc sống  ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của con người, vậy nên trước tiên bạn hãy đến với Thiền để loại bỏ sự căng thẳng, stress, tìm lại sự thư giãn, an yên trong cuộc sống hiện tại. Hãy đến với Thiền với bằng những điều giản dị như vậy,  chứ không nên đến với thiền bằng việc cố gắng phải được được các cấp độ của thiền định, bởi vì, trong cuộc sống thứ quý giá nhất đó là sức khỏe, hãy thiền để nâng cao sức khỏe cho bản thân.

Tham khảo: Wikipedia, Thư viện Hoa Sen.

Tham khảo thêm:

5/5 - (3 bình chọn)

Đăng ký tư vấn

(*) Chúng tôi cam đoan bảo mật thông tin của quý anh/chị. Nếu rò rỉ thông tin, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

    Tin tức liên quan